Frank Ramsey
“Thế giới sẽ không bao giờ biết được chuyện gì đã xảy ra - một tia sáng vừa vụt tắt”, nhà văn Lytto Strachey, thành viên Nhóm Văn chương Bloomsbury tại London, đã viết cho bạn mình như vậy vào ngày 19 tháng Một năm 1930. Frank Ramsey, giảng viên toán tại Đại học Cambridge, vừa qua đời vào ngày này, ở tuổi hai mươi sáu, có lẽ do nhiễm trùng gan mà ông đã mắc phải trong một lần đi bơi ở sông Cam. “Có cái gì đó của Newton ở trong anh ấy”, Strachey viết tiếp, “Sự thanh thoát và uy nghi của tư tưởng. Sự dịu dàng của khí chất”
Những bộ óc lỗi lạc tại Cambridge từng biết rằng một điều kỳ diệu đang tồn tại cùng với họ: Ramsey đã tạo được dấu ấn ngay sau khi nhập trường, vào năm 1920, với tư cách là một sinh viên tại trường đại học mà Newton từng học – Trinity. Năm mười tám tuổi, ông được lựa chọn để dịch [từ tiếng Đức (ND)] sang tiếng Anh tác phẩm Ludwig Wittgenstein, ‘Tractatus Logico-Philosophicus’ [Luận văn Logic-Triết học], một tác phẩm triết học được nhắc đến nhiều nhất thời bấy giờ. Hai năm sau, ông đã xuất bản một bài phê bình về tác phẩm này trên tạp chí triết học tiếng Anh hàng đầu, ‘Mind’. G.E. Moore, biên tập viên của tạp chí này, người đã giảng dạy tại Cambridge trong suốt một thập niên trước khi Ramsey xuất hiện, thú nhận rằng ông “rất lo lắng” khi phải thấy sinh viên năm thứ nhất này ngồi nghe mình giảng bài, bởi vì “cậu ấy thông minh hơn tôi rất nhiều”. John Maynard Keynes là một trong một số nhà kinh tế học Cambridge đã nói đến khả năng phán đoán và năng lực trí tuệ của cậu sinh viên đại học Ramsey.
Khi Ramsey công bố một bài nghiên cứu về tỷ lệ tiết kiệm [“A Mathematical Theory of Saving”, The Economic Journal (1928) [ND] ], Keynes đã gọi đây là “một trong những đóng góp đáng chú ý nhất đối với ngành kinh tế toán từng được thực hiện”. Ý tưởng gây tranh cãi nhất của nó là phúc lợi của các thế hệ tương lai nên được coi trọng như của thế hệ hiện tại. Ramsey viết, làm suy giảm giảm lợi ích của các thế hệ trong tương lai, là “không thể bảo vệ được về mặt đạo đức và được hình thành chủ yếu bởi sự kém cỏi của trí tưởng tượng”. Trước cuộc Đại khủng hoảng, các nhà kinh tế có nhiều mối quan tâm cấp bách hơn; chỉ vài thập kỷ sau, tác động to lớn của bài nghiên cứu này mới thấy rõ. Và vì vậy, nó đã được in trong hầu hết các tuyển tập của Ramsey. Đóng góp của ông cho toán học thuần túy đã ẩn giấu trong một bài nghiên cứu về một cái gì đó khác hơn. Bài nghiên cứu này bao gồm hai định lý mà ông đã sử dụng để thẩm định các quy trình xác định tính vững chắc của các công thức logic. Hơn bốn mươi năm sau khi chúng được xuất bản, hai công cụ này đã trở thành nền tảng của một nhánh toán học được gọi là lý thuyết Ramsey, nhằm phân tích về sự trật tự và sự rối loạn. (Chẳng hạn, như một nhà toán học Oxford, Martin Gould, đã giải thích, lý thuyết Ramsey cho chúng ta biết, trong số sáu người dùng Facebook, sẽ luôn có một bộ ba bạn bè hoặc một bộ ba trong đó không có ai là bạn bè.)
Ramsey không chỉ chết quá trẻ mà còn sống quá sớm, hoặc có vẻ như vậy. Ông đã rất ít khi quảng bá tầm quan trọng của ý tưởng của mình, và sự khiêm tốn của ông đã không giúp được gì. Ông không đặc biệt ấn tượng với bản thân mình, ông nghĩ rằng mình khá lười biếng. Đồng thời, tốc độ của trí tuệ ông đôi khi khiến các trang ông viết trở nên bí hiểm. Nhà triết học Hoa Kỳ nổi tiếng Donald Davidson là một trong số những nhà tư tưởng trải nghiệm những gì mà ông đặt tên là “hiệu ứng Ramsey”. Bạn có thể sẽ tạo ra được một bước đột phá đầy ly kỳ, chỉ để nhận ra rằng Ramsey đã tạo ra nó từ trước rồi.
Ngoài ra còn có vấn đề của Wittgenstein - người đã tạo ra sự sùng bái mình như một giáo chủ bằng những ẩn dụ khó hiểu, đã khiến hậu thế không chú ý đến các ý tưởng của Ramsey trong nhiều thập kỷ. Nhưng Ramsey lại trỗi dậy. Các nhà kinh tế hiện đang nghiên cứu về định giá kiểu Ramsey [một vấn đề chính sách nhằm xác định các mức giá mà một công ty độc quyền của nhà nước nên ấn định cho các sản phẩm khác nhau để tối đa hóa phúc lợi xã hội (ND)]; các nhà toán học suy ngẫm về số Ramsey. Các triết gia nói về các mệnh đề Ramsey, sự nhận biết kiểu Ramsey (Ramseyfication) [một tập hợp các khái niệm mới có thể được định nghĩa bằng cách nhắc đến mối quan hệ giữa chúng với nhau, và với các khái niệm cũ đã được hiểu rõ (ND)] và kiểm định Ramsey [kiểm định được sử dụng để kiểm tra tình trạng mô hình xác định dạng hàm sai (ND)]. Không ít tác giả tin rằng mình là một thành viên của trường phái Ramsey.
*
Các nhà triết học đôi khi chơi trò chơi tưởng tượng rằng liệu cách tư duy của thế kỷ XX sẽ khác đi như thế nào nếu Ramsey vẫn còn sống và tư tưởng của ông được thấu hiểu sớm hơn. Bài tập đó đã trở nên thú vị hơn với việc xuất bản cuốn tiểu sử đầy đủ đầu tiên của ông, ‘Frank Frank Ramsey: A Sheer Excess of Powers’ (Oxford), của Cheryl Misak, giáo sư triết học tại Đại học Toronto. Dựa trên các giấy tờ của gia đình và hồ sơ các cuộc phỏng vấn được thực hiện từ bốn thập kỷ trước cho một tiểu sử chưa từng được viết ra, Misak kể một câu chuyện sinh động hơn độc giả mường tượng, rất lâu sau sự kết thúc của một cuộc đời ngắn ngủi đến vậy.
Cha của Ramsey, Arthur, tuyên bố rằng Frank, người con cả của ông, đã học đọc gần như ngay khi cậu bé có thể nói. Ý thức chính trị của ông cũng sớm phát triển. Một ngày nọ, Frank bé nhỏ nói với mẹ mình, Agnes, rằng em trai của ông, Michael, thật không may, lại là một người bảo thủ:
“Mẹ thấy đấy, con hỏi em ấy ‘Michael, em là người tự do hay bảo thủ?’ Và em ấy hỏi: ‘Thế nghĩa là gì?’ Con đã trả lời: ‘Em muốn làm mọi thứ tốt hơn bằng cách thay đổi chúng hay em muốn giữ mọi thứ như hiện tại?’ Và em ấy nói rằng muốn giữ mọi thứ như hiện tại. Vì vậy, Michael phải là một người bảo thủ”.
Sau đó, hai anh em cũng chuyển hướng trong các vấn đề tôn giáo. Frank là một người vô thần từ lúc mười ba tuổi; Michael vào Giáo hội Anh giáo và trở thành Tổng Giám mục Canterbury.
Vào năm cuối thời đi học của Frank, rõ ràng ông đã ngốn các cuốn sách về kinh tế, chính trị, vật lý, logic và các môn học khác với tốc độ gần như mỗi ngày một cuốn. Vào các kỳ nghỉ, ông học tiếng Đức để có thể đọc một số sách toán học và triết học bằng ngôn ngữ gốc. Để phát triển năng khiếu toán học, ông đã cùng cha mình [lên giảng đường] - một nhà toán học Cambridge và là tác giả của sách giáo khoa về toán học và vật lý. Nhưng tính khí của Frank - ông nổi tiếng với tinh thần vui vẻ và tiếng cười lớn và dễ lan tỏa - trái ngược với cha, người ít được chú ý bởi sự nghiệp hàn lâm, mà nổi tiếng hơn bởi sự hay hờn dỗi, dễ cãi vã, và cứng nhắc. Một cáo phó trong hồ sơ của Trường Cao đẳng Magdalene, nơi Arthur Ramsey là Hiệu phó trong hai mươi hai năm, mô tả các quy tắc của ông đầy “khắc khổ”. Suốt thời ấu thơ, cách đối phó với tâm trạng u ám của cha ở Frank là ông bình tĩnh ra khỏi phòng mỗi khi cuộc chuyện trò [với cha] trở nên khó khăn. Có lẽ chính sự khoan hòa này đã giúp Ramsey, vào những năm cuối đời, có thể ứng phó tốt hơn với hầu hết những sự xem thường đầy tổn thương của Wittgenstein dành cho ông.
Vào thời điểm mà ít phụ nữ vào đại học, Agnes Ramsey đã học lịch sử tại Oxford, và cũng tham dự các bài giảng logic của Charles Dodgson (còn được gọi là Lewis Carroll). Bà từng là một trong những cô bé mà Frank thích chèo thuyền cùng. Tiến bộ hơn chồng, Agnes là một nhà hoạt động theo thiên hướng cánh tả và ủng hộ nữ quyền. Frank cũng có khuynh hướng tương tự; ở trường, ông được xem là một người Bolshevik hăng hái. Tại trường đại học, ông tham gia vào chính trị địa phương và là một người sắc sảo, mặc dù vừa là người vô thần, vừa là thành viên của Hội Xã hội Chủ nghĩa.
Gia đình Ramsey là một phần của tầng lớp trí thức quý tộc, một không khí mà Frank luôn cảm thấy dễ chịu ngay từ khi còn nhỏ. Sau cuộc gặp gỡ đầu tiên với Keynes, tại Cambridge, Ramsey đã ghi lại rằng ông thấy Keynes “rất dễ chịu”; khi đi dạo, họ đã nói về lịch sử kinh tế, tình trạng thảm hại của lý thuyết xác suất và sự khó khăn của việc viết lách. Khi đó, Ramsey mới 17 tuổi; còn Keynes đang làm cố vấn cho Hội Quốc Liên và Ngân hàng Trung ương Anh quốc, và ăn trưa với Winston Churchill.
Trong năm cuối cấp hai, Ramsey quyết định tập trung vào toán học thuần túy, là ngành học mà ông học tiếp lên cao rồi ra giảng dạy và sử dụng như một công cụ. Nhưng triết học luôn là thứ kích thích ông nhất. Ở trường, ông đã đọc cuốn “The Principles of Mathematics” [Các nguyên lý toán học] của Bertrand Russell, vốn ủng hộ qua điểm của “chủ nghĩa logic” rằng các chân lý và khái niệm toán học có thể được bắt nguồn từ các chân lý và khái niệm logic. Phần lớn tác phẩm kỹ thuật ban đầu trong triết học của Ramsey được xây dựng dựa trên các tư tưởng về logic của Russell và được sắp xếp lại thông qua các phân nhánh của logic của Russell. Cần lưu ý, ông đã cải thiện một lý thuyết về Russell về các nghịch lý tự tham chiếu. (Một ví dụ nổi tiếng liên quan đến một thợ cắt tóc sẽ cắt tóc cho tất cả mọi người không tự mình cắt tóc. Vậy anh ta có tự cắt tóc cho chính mình không?)
Ramsey cũng là một người nhiệt tình, mặc dù không phê phán, đối với cuốn sách ‘Tractatus’ của Wittgenstein – một cuốn sách mà Wittgenstein, người đầu tiên đến Cambridge để làm việc với Russell vào năm 1911, đã hoàn thành bảy năm sau đó, với tư cách là một quân nhân của Quân đội Áo-Hung trong một trại tù binh của Italia. ‘Tractatus’ đã lập luận rằng các vấn đề triết học là kết quả của việc hiểu sai logic của ngôn ngữ. Bằng cách tiết lộ logic thực sự của nó, Wittgenstein tin rằng, ông đã giải quyết tất cả vấn đề. Sự nồng nhiệt với logic của ông đã cuốn hút Ramsey - người mà, vào năm 1921, đã được lựa chọn để dịch cuốn sách này sang tiếng Anh.
Vài tháng sau khi tốt nghiệp, vào năm 1923, Ramsey đã dành hai tuần ở Áo và truy vấn Wittgenstein về tác phẩm ‘Tractatus’. Năm sau, vào tháng 3, Ramsey trở lại Vienna trong suốt sáu tháng. Em gái út của Wittgenstein, Gretl Stonborough, đã che chở Ramsey dưới đôi cánh thiên thần của nàng, cùng ông ăn tối mỗi tuần trong “cung điện mang phong cách baroque” của nàng, với “cầu thang rộng lớn và vô số phòng khách”, như ông từng hào hứng mô tả về ngôi nhà này. Họ đã cùng đi đến các bữa tiệc và đến nhà hát xem opera. Ramsey không biết gia đình nàng giàu có đến mức nào. (Ludwig sống rất đơn giản: ông đã đưa hết tiền cho một số anh chị em của mình sau khi cha họ qua đời.) Con trai lớn của Stonborough, Tommy, đang học toán tại Cambridge, đã từng nói rằng dường như toán học là một phần của cơ thể Ramsey, mà ông có thể sử dụng không cần phải suy nghĩ, như chính bàn tay của ông vậy.
Ramsey rất háo hức thảo luận về triết học với Wittgenstein, nhưng lần này cũng có một lý do khác cho chuyến thăm của ông. Ramsey muốn được phân tích tâm lý: ông lo lắng về vấn đề tính dục và đã phải khổ đau bởi “một niềm đam mê đầy bất hạnh của một người phụ nữ đã kết hôn”, như ông viết thư cho Wittgenstein. Keynes từng quan sát thấy rằng sự đơn giản và thẳng thắn của Ramsey có thể gần như đáng báo động. Ramsey, trong các nhật ký hành trình của mình, đã ghi lại một cuộc trao đổi với người phụ nữ có liên quan, một người bạn thân của gia đình: “Margaret, em sẽ làm tình với tôi chứ?”, một ngày nọ ông đã hỏi nàng như vậy. Nàng trả lời, “Anh có nghĩ rằng chỉ một lần thôi thì sẽ tạo nên sự khác biệt không?”, Ramsey dường như đã tin rằng nó đạt được như vậy, và vấn đề này khiến ông chán nản trong suốt hai năm.
Tại Vienna, ông được Theodor Reik, một trong những môn đệ đầu tiên của Freud, điều trị. Ban đầu, Ramsey thấy các buổi điều trị thật khó chịu, và đôi khi ông cảm thấy buồn chán vì nói quá nhiều về bản thân. Ông cho Reik mượn một bản sao của ‘Tractatus’, và cảm thấy khó chịu khi Reik tuyên bố rằng tác giả của nó phải mắc chứng rối loạn thần kinh cưỡng chế. Nhưng sau sáu tháng, ông kể với cha mẹ rằng ông thấy Reik đã rất thông minh, và việc được phân tích tâm lý có khả năng giúp cải thiện công việc của ông. Ngay cả những nền tảng của toán học cũng có thể được soi rọi bằng phân tâm học, Ramsey nghĩ: bảo vệ chống lại những thành kiến trong cảm xúc của một người sẽ giúp anh ta dễ dàng có được cái nhìn rõ ràng hơn về sự thật. Ramsey trở lại Cambridge vào tháng 10 năm 1924 và coi mình hiển nhiên đã khỏi bệnh. Trong khi đó, Reik nói với một người bạn của Ramsey rằng Ramsey đang không hiểu rằng bản thân mình đang sai lầm hơn bao giờ hết.
Ramsey, nhận học bổng tại trường đại học của Keynes, King College, bắt đầu giảng bài về toán học. Cao và ngày càng tròn trịa, ông có sự duyên dáng của người béo, và luôn hoạt bát trên sân tennis; một người bạn, viết trong nhật ký của cô, đã mô tả ông với khuôn mặt rộng mà “dường như luôn sẵn sàng nở một nụ cười lớn”. Ông yêu Lettice Baker, một phụ nữ tràn đầy sức sống, hơn ông năm tuổi, vốn đã rất xuất sắc trong khoa học và triết học khi nàng còn là sinh viên đại học Cambridge và đang làm việc tại phòng thí nghiệm tâm lý của trường đại học. Họ đã kết hôn vào năm 1925, ngay sau một bữa tiệc mùa hè trong lâu đài ở vùng quê của Keynes.
Một số nhân vật trong Câu lạc bộ Bloomsbury đã ở đó, bao gồm cả Virginia Woolf và người vợ mới của Keynes, một nữ diễn viên ba lê người Nga, Lydia Lopokova. Thật không may, Wittgenstein cũng vậy. Lydia đã phạm sai lầm khi nhận xét: “Thật là một cái cây đẹp”, có lẽ là quá tình cờ, khi Wittgenstein trừng mắt và đáp lại: “Cô có ý gì?”, khiến nàng bật khóc. Wittgenstein cũng trở nên khó chịu với Ramsey - người đang gặp rắc rối khi Wittgenstein tuyên bố Freud là “thiếu sót về mặt đạo đức”. Mặc dù Ramsey không có ác cảm, hai người đã không liên lạc trong bốn năm, ngoại trừ việc trao đổi thư từ rất hay vào năm 1927 về logic của “=“. (…)
Vào năm 1926, Ramsey đã viết một bài nghiên cứu dài về chân lý và xác suất [“Truth and Probability” (ND)], xem xét những ảnh hưởng của cái mà ông gọi là “niềm tin một phần”, đối với các phán đoán về xác suất của con người. Đây có thể là tác phẩm có ảnh hưởng nhất của ông. Nó đã khéo léo sử dụng các cá cược mà một người sẽ đưa ra trong các tình huống giả định để đo lường mức độ chắc chắn của anh ta tin vào một lời đề nghị và mức độ anh ta muốn một cái gì đó, và do đó đặt nền tảng của cái mà ngày nay được gọi là lý thuyết quyết định và lý thuyết xác suất chủ quan.
Ramsey hy vọng biến bài tiểu luận của mình về chân lý và xác suất thành một cuốn sách, mà ông từng thực hiện khi gần hai mươi tuổi, nhưng trong thời gian này ông cũng viết hai bài nghiên cứu cho ‘The Economic Journal’, một tờ tạp chí đang được Keynes biên tập. Một trong số đó là bài viết về tiết kiệm [“A Mathematical Theory of Saving”. Economic Journal. 38 (152): 543–559. (ND)], Ram Ramsey đã đề cập với Keynes rằng đó là chủ đề “dễ tập trung hơn nhiều so với triết học” – và bài kia là về thuế [“A Contribution to the Theory of Taxation”. Economic Journal. 37 (145): 47–61. (ND)], vốn không hề kém quan trọng hơn bài đầu. Đề xuất quan trọng của nó là, trong một số điều kiện nhất định, tỷ lệ thuế bán hàng nên được ấn định theo cách sao cho việc sản xuất của mỗi hàng hóa bị đánh thuế giảm theo cùng một tỷ lệ. Bài nghiên cứu về thuế, giống như bài về tiết kiệm, cuối cùng đã trở thành nền tảng của một lĩnh vực kinh tế liên quan đến “đánh thuế tối ưu”, và thay đổi cách các nhà kinh tế học tư duy về tài chính công.
Khi Wittgenstein trở lại Cambridge, đầu năm 1929, Ramsey rất muốn tiếp tục các cuộc nói chuyện triết học của họ, và dường như Wittgenstein cũng vậy. Ông chuyển đến cùng với Ramsey và Lettice cho đến khi tìm được chỗ ở của riêng mình, và hai người đã thảo luận chuyên sâu trong suốt năm cuối đời của Ramsey. Trong một lá thư vào thời điểm này, Keynes đã viết cho vợ mình rằng Wittgenstein đã đến ăn tối và “là người 'bình thường' hơn, theo mọi nghĩa, so với những gì anh từng biết”. Một người phụ nữ cuối cùng đã thành công trong việc xoa dịu sự khốc liệt của kẻ vũ phu dã man: Lettice Ramsey.
Misak nghĩ rằng Frank Ramsey cũng có ảnh hưởng đến Wittgenstein đến mức khiến Wittgenstein phải tự thay đổi. Bà lập luận rằng chính những cuộc nói chuyện của Ramsey với Wittgenstein vào năm 1929 đã biến một Wittgenstein của ‘Tractatus’ thành một Wittgenstein của ‘Các nghiên cứu triết học’, một cuộc tổng kết trong tác phẩm nền tảng của ông, được xuất bản sau khi ông qua đời vào năm 1953 [Philosophische Untersuchungen (1953) (ND)].
Vào thập niên 1930, Wittgenstein đã rời khỏi hệ thống logic hình thức trong tác phẩm ‘Tractatus’ của mình, và hướng tới những khám phá về các mục đích mà ngôn ngữ đặt trong ý nghĩa của từ - như ông đã lập luận trong tác phẩm sau này. Trong tác phẩm của mình, Misak cho biết, Wittgenstein đã chấp nhận loại chủ nghĩa thực dụng mà Ramsey đã nên lên. Trong lời nói đầu của tác phẩm “Investigations”, chắc chắn Wittgenstein đã tin tưởng Ramsey vì đã giúp ông nhận ra “những sai lầm nghiêm trọng” trong tác phẩm “Tractatus”. Nhưng thậm chí ông còn tuyên bố mình chịu ơn Piero Sraffa, một nhà kinh tế học Cambridge. Chúng ta có quá ít thông tin về các cuộc trò chuyện của Wittgenstein với một trong hai người này [Ramsey và Sraffa (ND)] để làm sáng tỏ suy nghĩ sau này của ông. Bên cạnh đó, Wittgenstein luôn phát triển phong cách của riêng mình đối với những ảnh hưởng mà ông hấp thụ: nếu các quan điểm của Ramsey được Wittgenstein hấp thụ, thì chúng sẽ không còn là Ramsey qua sự trình bày của Wittgenstein.
Sau cái chết của Ramsey, Lettice kiếm sống với tư cách là một nhiếp ảnh gia, dẫn đến những cuộc phiêu lưu táo bạo tại Campuchia. Bà từng nói với một người bạn rằng bà đã bị cám dỗ ngoại tình với Wittgenstein, mà bà không thể thực hiện được, và đó sẽ là trò đùa lớn nhất của bà. Lettice và Wittgenstein vẫn giữ mối quan hệ thân thiện sau khi Ramsey qua đời, cho đến ngày hai người hiểu lầm nhau và cắt đứt quan hệ.
Tính khí của Ramsey không thể khác hơn được nữa. Keynes đã viết rằng cảm thức và tính thực tiễn chung của Ramsey khiến ông nhớ đến nhà triết học người Scotland thế kỷ XVIII, David Hume. Và, giống như Hume, Ramsey bụ bẫm, vui vẻ và thích chơi bài. Một thành viên của nhóm Bloomsbury đã kể lại một đêm chơi bài xì-phé với Ramsey: “Frank, bằng những câu đố về một con hà mã và những phép tính toán học khủng khiếp, đã lấy hết tiền của chúng tôi”.
Đó không chỉ là vấn đề của một cuộc vui: cũng có những tương đồng triết học với Hume. Vị triết gia xứ Scotland đã viết rằng tâm trí con người “có xu hướng lớn để tự lan truyền ra các vật thể bên ngoài”, có nghĩa là, nhầm lẫn các hoạt động của chính nó với các đặc tính của hiện thực. Đây là một chủ đề trong tác phẩm của Ramsey. Ý tưởng của Hume là điều mà Ramsey đã lĩnh hội được, khi ông viết, vào năm cuối đời, rằng có nhiều loại câu mà chúng ta nghĩ là đang mô tả sự thật về thế giới, nhưng đó thực sự chỉ là sự thể hiện thái độ của chúng ta.
Không ai sẽ biết Ramsey có thể đã đưa ý tưởng này, hay bất kỳ ý tưởng nào của ông, lên tầm cao mới nào, nếu ông còn sống. Những tuyên bố về những gì sẽ xảy ra nếu mọi thứ trở nên khác biệt là những gì Ramsey gọi là các điều kiện “không hoàn thiện”. Chúng thể hiện một thái độ, nhưng không tương ứng với bất kỳ thực tế nào.
Những bộ óc lỗi lạc tại Cambridge từng biết rằng một điều kỳ diệu đang tồn tại cùng với họ: Ramsey đã tạo được dấu ấn ngay sau khi nhập trường, vào năm 1920, với tư cách là một sinh viên tại trường đại học mà Newton từng học – Trinity. Năm mười tám tuổi, ông được lựa chọn để dịch [từ tiếng Đức (ND)] sang tiếng Anh tác phẩm Ludwig Wittgenstein, ‘Tractatus Logico-Philosophicus’ [Luận văn Logic-Triết học], một tác phẩm triết học được nhắc đến nhiều nhất thời bấy giờ. Hai năm sau, ông đã xuất bản một bài phê bình về tác phẩm này trên tạp chí triết học tiếng Anh hàng đầu, ‘Mind’. G.E. Moore, biên tập viên của tạp chí này, người đã giảng dạy tại Cambridge trong suốt một thập niên trước khi Ramsey xuất hiện, thú nhận rằng ông “rất lo lắng” khi phải thấy sinh viên năm thứ nhất này ngồi nghe mình giảng bài, bởi vì “cậu ấy thông minh hơn tôi rất nhiều”. John Maynard Keynes là một trong một số nhà kinh tế học Cambridge đã nói đến khả năng phán đoán và năng lực trí tuệ của cậu sinh viên đại học Ramsey.
Khi Ramsey công bố một bài nghiên cứu về tỷ lệ tiết kiệm [“A Mathematical Theory of Saving”, The Economic Journal (1928) [ND] ], Keynes đã gọi đây là “một trong những đóng góp đáng chú ý nhất đối với ngành kinh tế toán từng được thực hiện”. Ý tưởng gây tranh cãi nhất của nó là phúc lợi của các thế hệ tương lai nên được coi trọng như của thế hệ hiện tại. Ramsey viết, làm suy giảm giảm lợi ích của các thế hệ trong tương lai, là “không thể bảo vệ được về mặt đạo đức và được hình thành chủ yếu bởi sự kém cỏi của trí tưởng tượng”. Trước cuộc Đại khủng hoảng, các nhà kinh tế có nhiều mối quan tâm cấp bách hơn; chỉ vài thập kỷ sau, tác động to lớn của bài nghiên cứu này mới thấy rõ. Và vì vậy, nó đã được in trong hầu hết các tuyển tập của Ramsey. Đóng góp của ông cho toán học thuần túy đã ẩn giấu trong một bài nghiên cứu về một cái gì đó khác hơn. Bài nghiên cứu này bao gồm hai định lý mà ông đã sử dụng để thẩm định các quy trình xác định tính vững chắc của các công thức logic. Hơn bốn mươi năm sau khi chúng được xuất bản, hai công cụ này đã trở thành nền tảng của một nhánh toán học được gọi là lý thuyết Ramsey, nhằm phân tích về sự trật tự và sự rối loạn. (Chẳng hạn, như một nhà toán học Oxford, Martin Gould, đã giải thích, lý thuyết Ramsey cho chúng ta biết, trong số sáu người dùng Facebook, sẽ luôn có một bộ ba bạn bè hoặc một bộ ba trong đó không có ai là bạn bè.)
Ramsey không chỉ chết quá trẻ mà còn sống quá sớm, hoặc có vẻ như vậy. Ông đã rất ít khi quảng bá tầm quan trọng của ý tưởng của mình, và sự khiêm tốn của ông đã không giúp được gì. Ông không đặc biệt ấn tượng với bản thân mình, ông nghĩ rằng mình khá lười biếng. Đồng thời, tốc độ của trí tuệ ông đôi khi khiến các trang ông viết trở nên bí hiểm. Nhà triết học Hoa Kỳ nổi tiếng Donald Davidson là một trong số những nhà tư tưởng trải nghiệm những gì mà ông đặt tên là “hiệu ứng Ramsey”. Bạn có thể sẽ tạo ra được một bước đột phá đầy ly kỳ, chỉ để nhận ra rằng Ramsey đã tạo ra nó từ trước rồi.
Ngoài ra còn có vấn đề của Wittgenstein - người đã tạo ra sự sùng bái mình như một giáo chủ bằng những ẩn dụ khó hiểu, đã khiến hậu thế không chú ý đến các ý tưởng của Ramsey trong nhiều thập kỷ. Nhưng Ramsey lại trỗi dậy. Các nhà kinh tế hiện đang nghiên cứu về định giá kiểu Ramsey [một vấn đề chính sách nhằm xác định các mức giá mà một công ty độc quyền của nhà nước nên ấn định cho các sản phẩm khác nhau để tối đa hóa phúc lợi xã hội (ND)]; các nhà toán học suy ngẫm về số Ramsey. Các triết gia nói về các mệnh đề Ramsey, sự nhận biết kiểu Ramsey (Ramseyfication) [một tập hợp các khái niệm mới có thể được định nghĩa bằng cách nhắc đến mối quan hệ giữa chúng với nhau, và với các khái niệm cũ đã được hiểu rõ (ND)] và kiểm định Ramsey [kiểm định được sử dụng để kiểm tra tình trạng mô hình xác định dạng hàm sai (ND)]. Không ít tác giả tin rằng mình là một thành viên của trường phái Ramsey.
*
Các nhà triết học đôi khi chơi trò chơi tưởng tượng rằng liệu cách tư duy của thế kỷ XX sẽ khác đi như thế nào nếu Ramsey vẫn còn sống và tư tưởng của ông được thấu hiểu sớm hơn. Bài tập đó đã trở nên thú vị hơn với việc xuất bản cuốn tiểu sử đầy đủ đầu tiên của ông, ‘Frank Frank Ramsey: A Sheer Excess of Powers’ (Oxford), của Cheryl Misak, giáo sư triết học tại Đại học Toronto. Dựa trên các giấy tờ của gia đình và hồ sơ các cuộc phỏng vấn được thực hiện từ bốn thập kỷ trước cho một tiểu sử chưa từng được viết ra, Misak kể một câu chuyện sinh động hơn độc giả mường tượng, rất lâu sau sự kết thúc của một cuộc đời ngắn ngủi đến vậy.
Cha của Ramsey, Arthur, tuyên bố rằng Frank, người con cả của ông, đã học đọc gần như ngay khi cậu bé có thể nói. Ý thức chính trị của ông cũng sớm phát triển. Một ngày nọ, Frank bé nhỏ nói với mẹ mình, Agnes, rằng em trai của ông, Michael, thật không may, lại là một người bảo thủ:
“Mẹ thấy đấy, con hỏi em ấy ‘Michael, em là người tự do hay bảo thủ?’ Và em ấy hỏi: ‘Thế nghĩa là gì?’ Con đã trả lời: ‘Em muốn làm mọi thứ tốt hơn bằng cách thay đổi chúng hay em muốn giữ mọi thứ như hiện tại?’ Và em ấy nói rằng muốn giữ mọi thứ như hiện tại. Vì vậy, Michael phải là một người bảo thủ”.
Sau đó, hai anh em cũng chuyển hướng trong các vấn đề tôn giáo. Frank là một người vô thần từ lúc mười ba tuổi; Michael vào Giáo hội Anh giáo và trở thành Tổng Giám mục Canterbury.
Vào năm cuối thời đi học của Frank, rõ ràng ông đã ngốn các cuốn sách về kinh tế, chính trị, vật lý, logic và các môn học khác với tốc độ gần như mỗi ngày một cuốn. Vào các kỳ nghỉ, ông học tiếng Đức để có thể đọc một số sách toán học và triết học bằng ngôn ngữ gốc. Để phát triển năng khiếu toán học, ông đã cùng cha mình [lên giảng đường] - một nhà toán học Cambridge và là tác giả của sách giáo khoa về toán học và vật lý. Nhưng tính khí của Frank - ông nổi tiếng với tinh thần vui vẻ và tiếng cười lớn và dễ lan tỏa - trái ngược với cha, người ít được chú ý bởi sự nghiệp hàn lâm, mà nổi tiếng hơn bởi sự hay hờn dỗi, dễ cãi vã, và cứng nhắc. Một cáo phó trong hồ sơ của Trường Cao đẳng Magdalene, nơi Arthur Ramsey là Hiệu phó trong hai mươi hai năm, mô tả các quy tắc của ông đầy “khắc khổ”. Suốt thời ấu thơ, cách đối phó với tâm trạng u ám của cha ở Frank là ông bình tĩnh ra khỏi phòng mỗi khi cuộc chuyện trò [với cha] trở nên khó khăn. Có lẽ chính sự khoan hòa này đã giúp Ramsey, vào những năm cuối đời, có thể ứng phó tốt hơn với hầu hết những sự xem thường đầy tổn thương của Wittgenstein dành cho ông.
Vào thời điểm mà ít phụ nữ vào đại học, Agnes Ramsey đã học lịch sử tại Oxford, và cũng tham dự các bài giảng logic của Charles Dodgson (còn được gọi là Lewis Carroll). Bà từng là một trong những cô bé mà Frank thích chèo thuyền cùng. Tiến bộ hơn chồng, Agnes là một nhà hoạt động theo thiên hướng cánh tả và ủng hộ nữ quyền. Frank cũng có khuynh hướng tương tự; ở trường, ông được xem là một người Bolshevik hăng hái. Tại trường đại học, ông tham gia vào chính trị địa phương và là một người sắc sảo, mặc dù vừa là người vô thần, vừa là thành viên của Hội Xã hội Chủ nghĩa.
Gia đình Ramsey là một phần của tầng lớp trí thức quý tộc, một không khí mà Frank luôn cảm thấy dễ chịu ngay từ khi còn nhỏ. Sau cuộc gặp gỡ đầu tiên với Keynes, tại Cambridge, Ramsey đã ghi lại rằng ông thấy Keynes “rất dễ chịu”; khi đi dạo, họ đã nói về lịch sử kinh tế, tình trạng thảm hại của lý thuyết xác suất và sự khó khăn của việc viết lách. Khi đó, Ramsey mới 17 tuổi; còn Keynes đang làm cố vấn cho Hội Quốc Liên và Ngân hàng Trung ương Anh quốc, và ăn trưa với Winston Churchill.
Trong năm cuối cấp hai, Ramsey quyết định tập trung vào toán học thuần túy, là ngành học mà ông học tiếp lên cao rồi ra giảng dạy và sử dụng như một công cụ. Nhưng triết học luôn là thứ kích thích ông nhất. Ở trường, ông đã đọc cuốn “The Principles of Mathematics” [Các nguyên lý toán học] của Bertrand Russell, vốn ủng hộ qua điểm của “chủ nghĩa logic” rằng các chân lý và khái niệm toán học có thể được bắt nguồn từ các chân lý và khái niệm logic. Phần lớn tác phẩm kỹ thuật ban đầu trong triết học của Ramsey được xây dựng dựa trên các tư tưởng về logic của Russell và được sắp xếp lại thông qua các phân nhánh của logic của Russell. Cần lưu ý, ông đã cải thiện một lý thuyết về Russell về các nghịch lý tự tham chiếu. (Một ví dụ nổi tiếng liên quan đến một thợ cắt tóc sẽ cắt tóc cho tất cả mọi người không tự mình cắt tóc. Vậy anh ta có tự cắt tóc cho chính mình không?)
Ramsey cũng là một người nhiệt tình, mặc dù không phê phán, đối với cuốn sách ‘Tractatus’ của Wittgenstein – một cuốn sách mà Wittgenstein, người đầu tiên đến Cambridge để làm việc với Russell vào năm 1911, đã hoàn thành bảy năm sau đó, với tư cách là một quân nhân của Quân đội Áo-Hung trong một trại tù binh của Italia. ‘Tractatus’ đã lập luận rằng các vấn đề triết học là kết quả của việc hiểu sai logic của ngôn ngữ. Bằng cách tiết lộ logic thực sự của nó, Wittgenstein tin rằng, ông đã giải quyết tất cả vấn đề. Sự nồng nhiệt với logic của ông đã cuốn hút Ramsey - người mà, vào năm 1921, đã được lựa chọn để dịch cuốn sách này sang tiếng Anh.
Vài tháng sau khi tốt nghiệp, vào năm 1923, Ramsey đã dành hai tuần ở Áo và truy vấn Wittgenstein về tác phẩm ‘Tractatus’. Năm sau, vào tháng 3, Ramsey trở lại Vienna trong suốt sáu tháng. Em gái út của Wittgenstein, Gretl Stonborough, đã che chở Ramsey dưới đôi cánh thiên thần của nàng, cùng ông ăn tối mỗi tuần trong “cung điện mang phong cách baroque” của nàng, với “cầu thang rộng lớn và vô số phòng khách”, như ông từng hào hứng mô tả về ngôi nhà này. Họ đã cùng đi đến các bữa tiệc và đến nhà hát xem opera. Ramsey không biết gia đình nàng giàu có đến mức nào. (Ludwig sống rất đơn giản: ông đã đưa hết tiền cho một số anh chị em của mình sau khi cha họ qua đời.) Con trai lớn của Stonborough, Tommy, đang học toán tại Cambridge, đã từng nói rằng dường như toán học là một phần của cơ thể Ramsey, mà ông có thể sử dụng không cần phải suy nghĩ, như chính bàn tay của ông vậy.
Ramsey rất háo hức thảo luận về triết học với Wittgenstein, nhưng lần này cũng có một lý do khác cho chuyến thăm của ông. Ramsey muốn được phân tích tâm lý: ông lo lắng về vấn đề tính dục và đã phải khổ đau bởi “một niềm đam mê đầy bất hạnh của một người phụ nữ đã kết hôn”, như ông viết thư cho Wittgenstein. Keynes từng quan sát thấy rằng sự đơn giản và thẳng thắn của Ramsey có thể gần như đáng báo động. Ramsey, trong các nhật ký hành trình của mình, đã ghi lại một cuộc trao đổi với người phụ nữ có liên quan, một người bạn thân của gia đình: “Margaret, em sẽ làm tình với tôi chứ?”, một ngày nọ ông đã hỏi nàng như vậy. Nàng trả lời, “Anh có nghĩ rằng chỉ một lần thôi thì sẽ tạo nên sự khác biệt không?”, Ramsey dường như đã tin rằng nó đạt được như vậy, và vấn đề này khiến ông chán nản trong suốt hai năm.
Tại Vienna, ông được Theodor Reik, một trong những môn đệ đầu tiên của Freud, điều trị. Ban đầu, Ramsey thấy các buổi điều trị thật khó chịu, và đôi khi ông cảm thấy buồn chán vì nói quá nhiều về bản thân. Ông cho Reik mượn một bản sao của ‘Tractatus’, và cảm thấy khó chịu khi Reik tuyên bố rằng tác giả của nó phải mắc chứng rối loạn thần kinh cưỡng chế. Nhưng sau sáu tháng, ông kể với cha mẹ rằng ông thấy Reik đã rất thông minh, và việc được phân tích tâm lý có khả năng giúp cải thiện công việc của ông. Ngay cả những nền tảng của toán học cũng có thể được soi rọi bằng phân tâm học, Ramsey nghĩ: bảo vệ chống lại những thành kiến trong cảm xúc của một người sẽ giúp anh ta dễ dàng có được cái nhìn rõ ràng hơn về sự thật. Ramsey trở lại Cambridge vào tháng 10 năm 1924 và coi mình hiển nhiên đã khỏi bệnh. Trong khi đó, Reik nói với một người bạn của Ramsey rằng Ramsey đang không hiểu rằng bản thân mình đang sai lầm hơn bao giờ hết.
Ramsey, nhận học bổng tại trường đại học của Keynes, King College, bắt đầu giảng bài về toán học. Cao và ngày càng tròn trịa, ông có sự duyên dáng của người béo, và luôn hoạt bát trên sân tennis; một người bạn, viết trong nhật ký của cô, đã mô tả ông với khuôn mặt rộng mà “dường như luôn sẵn sàng nở một nụ cười lớn”. Ông yêu Lettice Baker, một phụ nữ tràn đầy sức sống, hơn ông năm tuổi, vốn đã rất xuất sắc trong khoa học và triết học khi nàng còn là sinh viên đại học Cambridge và đang làm việc tại phòng thí nghiệm tâm lý của trường đại học. Họ đã kết hôn vào năm 1925, ngay sau một bữa tiệc mùa hè trong lâu đài ở vùng quê của Keynes.
Một số nhân vật trong Câu lạc bộ Bloomsbury đã ở đó, bao gồm cả Virginia Woolf và người vợ mới của Keynes, một nữ diễn viên ba lê người Nga, Lydia Lopokova. Thật không may, Wittgenstein cũng vậy. Lydia đã phạm sai lầm khi nhận xét: “Thật là một cái cây đẹp”, có lẽ là quá tình cờ, khi Wittgenstein trừng mắt và đáp lại: “Cô có ý gì?”, khiến nàng bật khóc. Wittgenstein cũng trở nên khó chịu với Ramsey - người đang gặp rắc rối khi Wittgenstein tuyên bố Freud là “thiếu sót về mặt đạo đức”. Mặc dù Ramsey không có ác cảm, hai người đã không liên lạc trong bốn năm, ngoại trừ việc trao đổi thư từ rất hay vào năm 1927 về logic của “=“. (…)
Vào năm 1926, Ramsey đã viết một bài nghiên cứu dài về chân lý và xác suất [“Truth and Probability” (ND)], xem xét những ảnh hưởng của cái mà ông gọi là “niềm tin một phần”, đối với các phán đoán về xác suất của con người. Đây có thể là tác phẩm có ảnh hưởng nhất của ông. Nó đã khéo léo sử dụng các cá cược mà một người sẽ đưa ra trong các tình huống giả định để đo lường mức độ chắc chắn của anh ta tin vào một lời đề nghị và mức độ anh ta muốn một cái gì đó, và do đó đặt nền tảng của cái mà ngày nay được gọi là lý thuyết quyết định và lý thuyết xác suất chủ quan.
Ramsey hy vọng biến bài tiểu luận của mình về chân lý và xác suất thành một cuốn sách, mà ông từng thực hiện khi gần hai mươi tuổi, nhưng trong thời gian này ông cũng viết hai bài nghiên cứu cho ‘The Economic Journal’, một tờ tạp chí đang được Keynes biên tập. Một trong số đó là bài viết về tiết kiệm [“A Mathematical Theory of Saving”. Economic Journal. 38 (152): 543–559. (ND)], Ram Ramsey đã đề cập với Keynes rằng đó là chủ đề “dễ tập trung hơn nhiều so với triết học” – và bài kia là về thuế [“A Contribution to the Theory of Taxation”. Economic Journal. 37 (145): 47–61. (ND)], vốn không hề kém quan trọng hơn bài đầu. Đề xuất quan trọng của nó là, trong một số điều kiện nhất định, tỷ lệ thuế bán hàng nên được ấn định theo cách sao cho việc sản xuất của mỗi hàng hóa bị đánh thuế giảm theo cùng một tỷ lệ. Bài nghiên cứu về thuế, giống như bài về tiết kiệm, cuối cùng đã trở thành nền tảng của một lĩnh vực kinh tế liên quan đến “đánh thuế tối ưu”, và thay đổi cách các nhà kinh tế học tư duy về tài chính công.
Khi Wittgenstein trở lại Cambridge, đầu năm 1929, Ramsey rất muốn tiếp tục các cuộc nói chuyện triết học của họ, và dường như Wittgenstein cũng vậy. Ông chuyển đến cùng với Ramsey và Lettice cho đến khi tìm được chỗ ở của riêng mình, và hai người đã thảo luận chuyên sâu trong suốt năm cuối đời của Ramsey. Trong một lá thư vào thời điểm này, Keynes đã viết cho vợ mình rằng Wittgenstein đã đến ăn tối và “là người 'bình thường' hơn, theo mọi nghĩa, so với những gì anh từng biết”. Một người phụ nữ cuối cùng đã thành công trong việc xoa dịu sự khốc liệt của kẻ vũ phu dã man: Lettice Ramsey.
Misak nghĩ rằng Frank Ramsey cũng có ảnh hưởng đến Wittgenstein đến mức khiến Wittgenstein phải tự thay đổi. Bà lập luận rằng chính những cuộc nói chuyện của Ramsey với Wittgenstein vào năm 1929 đã biến một Wittgenstein của ‘Tractatus’ thành một Wittgenstein của ‘Các nghiên cứu triết học’, một cuộc tổng kết trong tác phẩm nền tảng của ông, được xuất bản sau khi ông qua đời vào năm 1953 [Philosophische Untersuchungen (1953) (ND)].
Vào thập niên 1930, Wittgenstein đã rời khỏi hệ thống logic hình thức trong tác phẩm ‘Tractatus’ của mình, và hướng tới những khám phá về các mục đích mà ngôn ngữ đặt trong ý nghĩa của từ - như ông đã lập luận trong tác phẩm sau này. Trong tác phẩm của mình, Misak cho biết, Wittgenstein đã chấp nhận loại chủ nghĩa thực dụng mà Ramsey đã nên lên. Trong lời nói đầu của tác phẩm “Investigations”, chắc chắn Wittgenstein đã tin tưởng Ramsey vì đã giúp ông nhận ra “những sai lầm nghiêm trọng” trong tác phẩm “Tractatus”. Nhưng thậm chí ông còn tuyên bố mình chịu ơn Piero Sraffa, một nhà kinh tế học Cambridge. Chúng ta có quá ít thông tin về các cuộc trò chuyện của Wittgenstein với một trong hai người này [Ramsey và Sraffa (ND)] để làm sáng tỏ suy nghĩ sau này của ông. Bên cạnh đó, Wittgenstein luôn phát triển phong cách của riêng mình đối với những ảnh hưởng mà ông hấp thụ: nếu các quan điểm của Ramsey được Wittgenstein hấp thụ, thì chúng sẽ không còn là Ramsey qua sự trình bày của Wittgenstein.
Sau cái chết của Ramsey, Lettice kiếm sống với tư cách là một nhiếp ảnh gia, dẫn đến những cuộc phiêu lưu táo bạo tại Campuchia. Bà từng nói với một người bạn rằng bà đã bị cám dỗ ngoại tình với Wittgenstein, mà bà không thể thực hiện được, và đó sẽ là trò đùa lớn nhất của bà. Lettice và Wittgenstein vẫn giữ mối quan hệ thân thiện sau khi Ramsey qua đời, cho đến ngày hai người hiểu lầm nhau và cắt đứt quan hệ.
Tính khí của Ramsey không thể khác hơn được nữa. Keynes đã viết rằng cảm thức và tính thực tiễn chung của Ramsey khiến ông nhớ đến nhà triết học người Scotland thế kỷ XVIII, David Hume. Và, giống như Hume, Ramsey bụ bẫm, vui vẻ và thích chơi bài. Một thành viên của nhóm Bloomsbury đã kể lại một đêm chơi bài xì-phé với Ramsey: “Frank, bằng những câu đố về một con hà mã và những phép tính toán học khủng khiếp, đã lấy hết tiền của chúng tôi”.
Đó không chỉ là vấn đề của một cuộc vui: cũng có những tương đồng triết học với Hume. Vị triết gia xứ Scotland đã viết rằng tâm trí con người “có xu hướng lớn để tự lan truyền ra các vật thể bên ngoài”, có nghĩa là, nhầm lẫn các hoạt động của chính nó với các đặc tính của hiện thực. Đây là một chủ đề trong tác phẩm của Ramsey. Ý tưởng của Hume là điều mà Ramsey đã lĩnh hội được, khi ông viết, vào năm cuối đời, rằng có nhiều loại câu mà chúng ta nghĩ là đang mô tả sự thật về thế giới, nhưng đó thực sự chỉ là sự thể hiện thái độ của chúng ta.
Không ai sẽ biết Ramsey có thể đã đưa ý tưởng này, hay bất kỳ ý tưởng nào của ông, lên tầm cao mới nào, nếu ông còn sống. Những tuyên bố về những gì sẽ xảy ra nếu mọi thứ trở nên khác biệt là những gì Ramsey gọi là các điều kiện “không hoàn thiện”. Chúng thể hiện một thái độ, nhưng không tương ứng với bất kỳ thực tế nào.
Comments
Post a Comment